Có thế nói rằng, cây hoa hòe là một trong những loại thảo dược quý được trồng ở rất nhiều nơi. Với hoa hòe, chúng ta có thể hãm trà uống để thanh nhiệt giải độc. Trong Tây y thì các bác sĩ đã nghiên cứu sử dụng hoa hòe để chiết xuất rutin nhằm bào chế ra các sản phẩm chữa bệnh về tĩnh – động mạch. Trong Đông y thì các thầy thuốc lại xem đây như là nguyên liệu quan trọng được bổ sung trong các bài thuốc dân gian. Ngay sau đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi nét thông tin tổng quan về loại thảo dược quý này. Bên cạnh đó là một số công dụng chữa bệnh hiệu quả mà loại hoa này mang lại.
Một số thông tin tổng quan về cây hoa hòe
Cây hòe [ Styphnolobium japonicum (L.) Schott], họ Đậu (Fabaceae) là cây nhỡ, cao đến 7 m, cành hình trụ, nhẵn. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, các lá chét mọc đối. Cụm hoa mọc thành chùm ở đầu cành, màu trắng hoặc vàng nhạt. Quả đậu hình tràng hạt, thắt lại không đều giữa các hạt. Đài hoa màu xanh, hình chuông và chỉ dài bằng một nửa chiều dài của nụ hoa. Hoa hòe khi chưa nở có màu vàng. Nụ hoa dài chừng 10mm (tối đa) có mùi thơm, nếm thấy vị đắng nhẹ.
Hòe được trồng ở nhiều nơi trong nước ta, nhất là các tỉnh đồng bằng sông hồng. Ví dụ như Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định… để lấy nguyên liệu xuất khẩu, chiết xuất rutin và làm thuốc trong YHCT. Chỉ thu hái hoa hòe khi đã có từ 5 – 10 % hoa đã nở, ta thu được nụ hòe, có kích thước bằng hạt gạo tẻ. Do vậy mà nó có tên là hòe mễ (mễ là gạo). Trong hoa hòe chứa rutin. Ngoài ra còn có quercetin, betulin, sophoradiol, sophorin A, B, C và sophorose.
Hoa hòe có tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thấm của mao mạch. Nó giúp hồi phục tính đàn hồi của mạch máu đã tổn thương; tác dụng chống viêm, làm giảm sự tiêu hao oxy của cơ tim. Cạnh đó là tác dụng cầm máu (hoa hòe hòe sao cháy). Tác dụng khác của hoa hòe là hạ huyết áp, bảo vệ gan (rutin), hạ cholesterol máu, cường tim và giãn động mạch vành, giải co thắt cơ trơn phế quản và ruột (quercetin).
Một số bài thuốc chữa bệnh từ hoa hòe
Theo YHCT, hoa hòe có tác dụng lương huyết, chỉ huyết, thanh can, tả hỏa, hạ huyết áp. Nó được dùng trị các chứng chảy máu cam, đại tiểu tiện ra máu, xuất huyết dưới da, trĩ xuất huyết, cao huyết áp. Liều lượng một ngày 4 – 12g, dạng thuốc sắc hoặc thuốc hãm. Chúng ta không dùng hoa hòe cho phụ nữ có thai. Lý do vì nó có thể gây ra những tác dụng phụ không mong muốn; có thể gây hại đến sự phát triển của thai nhi.
Một số chứng bệnh thường dùng hoa hoè:
– Trị máu cam, trĩ xuất huyết: Nụ hòe, trắc bách diệp, ngải diệp, tất cả đều sao cháy, mỗi vị 10g. Sắc uống ngày một thang.
– Trị tăng huyết áp, đau mắt: Nụ hòe (sao vàng), lá sen, mỗi vị 10, cúc hoa vàng 4g, sắc uống ngaỳ một thang.
– Trị đaị tiểu tiện ra máu: Hoa hòe, trắc bách diệp, mỗi vị 20g, hoàng liên, kinh giới , mỗi vị 8g, sắc uống, ngày một thang chia hai lần.
– Trị đi ngoài ra máu, các trường hợp huyết nhiệt, mao mạch giòn, huyết áp tăng: Hòe hoa, thảo quyết minh, đều sao vàng, lượng bằng nhau 8 – 10g, dưới dạng thuốc hãm, uống nhiều ngày .
– Trị trĩ nội, viêm ruột: Quả hòe ( sao đen), kim ngân hoa, mỗi vị 100g, cam thảo 10g, nghệ vàng 10g. Tán bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 8 – 10g.